chuyên đề Alan phan 2014 Lực Chuyển thế kỷ

Lực Chuyển 1: Văn Hoá Toàn Cầu

Đăng bởi: Alan Phan Ngày: 24 / 06 / 2014 

Lực Chuyển 1: Văn Hoá Toàn Cầu

Alan Phan

(Bài 2 trong loạt bài Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới ). Link

http://www.gocnhinalan.com/blog-cua-alan-va-bca/nhung-luc-chuyen-cua-hai-thap-ky-toi.html

19 June 2014

Định nghĩa về văn hoá: Văn hoá bao gồm tín ngưỡng, thang giá trị, tập quán, văn học nghệ thuật, lối sống, cách tư duy, cách hành xử, lối làm việc…tại một nơi chốn nào đó, của xã hội hay tổ chức ( beliefs, set of value, customs, arts, way of life, way of thinking, behaving, working in a particular place, society or organization  – theo Merriam-Webster).

Gần đây, một đại gia Việt mắng tôi là “thiếu văn hoá” vì tôi dùng chữ “Drop Dead” của Tổng Thống Ford khi thành phố New York nhờ Toà Bạch Ốc cứu trợ vào năm 1975. Tôi có thêm một trận cười khi một BCA xuất hiện tại một buổi nói chuyện của tôi ở Hà Nội với chiếc T-shirt in dòng chữ “Xin…Drop Dead “(bỏ vài chữ)… Theo như định nghĩa trên, chúng ta có thể thiếu tiền, thiếu tình, thiếu kinh nghiệm hay thiếu kiến thức (thiếu giáo dục?), nhưng không thể thiếu văn hoá được. Văn hoá chắc chắn là rất khác biệt tại nhiều môi trường khác nhau…nhưng văn hoá “nhậu” hay “nổ” hay “ăn cắp” hay “tham nhũng” hay “nói dối” cũng là một loại văn hoá đặc trưng không chối bỏ được.

Thêm vào đó, tôi còn bị một đọc giả phê bình là có văn hoá “lai căng”. Ở Việt Nam, người dùng chữ lai căng để mắng ai thường mang chút trịch thượng và đạo đức. Nhưng khi tôi suy ngẫm thêm, thì tôi nhận ra là mình lai căng thật. Qua Mỹ từ năm 18 tuổi, tôi sống đến ba phần tư đời mình tại nhiều nước xa lạ, và quả thực, văn hoá khác biệt của khắp nơi thấm sâu vào tư duy cũng như thói quen, tạo nên một con người Alan rất nhiều góc cạnh. Xấu hay tốt, suốt 69 năm qua, đó là một văn hoá lai căng tôi không thể phủ nhận.

Tuy nhiên, tôi muốn báo cho mọi người biết là đến thế hệ tới thì có lẽ hơn 95% giới trẻ toàn cầu sẽ mang nhãn hiệu “lai căng” (5% còn lại là những người rừng, hay đội quân Hồi Giáo cực đoan,  hay những con cừu sinh ra và lớn lên ở Cuba, Bắc Triều Tiên hay….?). Mỹ thường được xem như là một melting pot của thế giới, hoà nhập tất cả văn hoá, chủng tộc, thói quen, tôn giáo, tư tưởng của mọi sắc dân trên địa cầu. Kết quả sau cùng là một tổng hợp lai căng rất đặc thù, “American culture”.

Khi tôi đến Mỹ năm 1963, văn hoá Mỹ thực ra là một biểu tượng của nền văn minh Anglo Saxon. Từ mầu da trắng phếu của đa số người dân, đến tôn giáo, triết thuyết và tập quán đem từ lục địa Âu Châu cũ, áp đặt lên một môi trường mới lạ trù phú là xứ Mỹ bao la. 50 năm sau, văn hoá Mỹ đã biến dạng hoàn toàn với các sắc mầu Latin, Á Châu và Phi Châu. Những cái TV shows gần đây không những pha trộn đủ loại diễn viên và kịch bản từ nhiều sắc dân mà còn trưng bày những nét văn hoá rất xa lạ với người gốc Anglo Saxon. Từ Leave It To Beaver, The Brady Bunch ngày xưa…đến talk show của Oprah Winfrey hay Modern Family bây giờ…quả là một bước nhẩy vọt về “cách mạng văn hoá” mà Mao Trạch Đông cũng không thể hình dung nổi.

Vì sự lan toả quá nhanh của công nghệ thông tin và hệ thống giao thông, cũng như tính chất liên thông của nền kinh tế toàn cầu, giới trẻ khắp thế giới sẽ hấp thụ một nền “văn hoá toàn cầu” dựa trên căn bản và theo một tiến trình tương tự như văn hoá Mỹ hiện nay. Dĩ nhiên là sẽ có vài khác biệt trưng bày bản sắc địa phương của từng vùng lãnh thổ, nhưng văn hoá này sẽ có nhiều mẫu số chung như sau:

Căn cơ của văn hoá là những thang giá trị của văn minh Anglo Saxon:

Với sự phổ thông của Anh ngữ khắp nơi, ngay cả tại Trung Quốc và các quốc gia Đức, Pháp, Tây Ban Nha…, phần lớn kiến thức nhân loại sẽ bắt nguồn từ tư duy của văn minh Tây Phương. Tôi quan sát là ngay cả các sách vở, tài liệu về Phật Giáo, thư mục tiếng Anh nhiều hơn tiếng Ấn hay tiếng Hoa, nơi xuất phát của tôn giáo này. Quay qua các diễn biến hiện tại trên thế giới, những tường trình từ CNN, New York Times, Reuters, Economist…không những có một số lượng bài vở nhiều hơn, mà còn mang một tỷ trọng lớn hơn trong việc đúc kết dư luận thế giới.

Trên căn bản này, góc nhìn và phân tích của mọi vấn đề sẽ mang mầu sắc tự do cá nhân, năng động, sáng tạo, dân chủ, đa dạng và đa nguyên. Đây cũng là những cột trụ của văn hoá Mỹ.

- Tốc độ của công nghệ mới sẽ thu ngắn tiến trình lan toả và hấp thụ

Chỉ trong 5 năm, Facebook đã phát triển lượng thành viên từ 12 triệu (2007) lên đến 1 tỷ người (2012). Đây là một cuộc cách mạng về truyền thông xã hội (social media) nhanh nhất lịch sử. Microsoft phải mất đến 15 năm mới đem hệ điều hành Windows đến khắp thế giới và Google cũng phải mất 11 năm mới tạo thói quen cho trí thức về việc tìm kiếm. Ngày nay, một video phổ thông gởi lên YouTube như Gangnam Style phát tán đến 2.2 tỷ người xem; hay một video game bán chạy nhất như Tetris có đến 143 triệu người mua trong vài tháng.

Vì quá nhiều thông tin, trò chơi và nghiên cứu tràn ngập Internet, bất cứ sản phẩm nào xâm nhập vào “database văn hoá” và tạo thói quen cho đa số nhân loại phải là một đặc thù vượt trội mọi đối thủ. Sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường sẽ loại bỏ những sản phẩm trung bình, sao chép và mang bản sắc địa phương. Ứng dụng vào văn hoá toàn cầu phải đi qua đám mây Internet và phải tạo thích thú cho phần lớn người sử dụng.

-Ảnh hưởng tương quan từ nhiều nguồn gốc

Dĩ nhiên, vì ảnh hưởng rộng lớn đến từ sức mạnh kinh tế, công nghệ và quân sự của Âu Mỹ, nên đặc trưng nền văn hoá Âu Mỹ sẽ áp đảo phần lớn “văn hoá toàn cầu”.  Toàn thế giới vẫn nhìn về các trào lưu mới từ Âu Mỹ để định hướng sinh hoạt; và những tài sản mềm của Wall Street, Silicon Valley hay Hollywood đã khống chế tư duy của đa số giới trẻ.

Tuy nhiên, ảnh hưởng này không phải một chiều. Số chuyên viên Ấn, Hoa, Trung Đông tại Silicon Valley và Wall Street càng ngày càng nắm giữ nhiều chức vụ quản lý cao cấp tạo nên một mạng lưới với những suy nghĩ cổ truyền từ Phương Đông. Trong khi đó, số diễn viên tài tử gốc Phi Châu và Latin gia tăng nhanh chóng tại Hollywood đem lại những lăng kính không chút Anglo Saxon nào trong sự đóng góp vào văn hoá toàn cầu.

- Các xung đột chủng tộc và tôn giáo sẽ gây nhiều biến thái

Dĩ nhiên, khi có “chung” thì phải có “đụng”. Ngoài những tranh cãi logic về lý thuyết và thực dụng, các kiên định về mầu da, bản sắc dân tộc, tập tục cổ truyền cũng như tín ngưỡng sẽ tạo những điều chỉnh nhiều khi đi ngược với nguyên lý “cởi mở”, “hội nhập” và “hoà đồng” của nền văn hoá toàn cầu.

Để tránh những xung đột này, văn hoá toàn cầu có thể trở nên “không bản sắc”, “mờ nhạt” và “do dự”. Từ đó, tư duy và phương cách sống của giới trẻ cũng mất đi những lý tưởng cuồng nhiệt, những góc cạnh sắc bén, những ý chí dũng cảm… đã góp phần lớn vào việc phát triển các nền văn minh cổ truyền. Không còn trắng đen, mà chỉ là mầu xám.

- Mặt trái của văn hoá toàn cầu là vô cảm, phiến diện và hưởng thụ

Nếu văn hoá melting pot của Mỹ là một dấu hiệu, nền văn hoá toàn cầu sẽ biến đa số giới trẻ thành một đám đông sống theo sở thích cá nhân, say mê hưởng thụ và tìm những thoả mãn nhất thời (instant gratification). Và để đạt đến mục tiêu này, họ cần phải chăm chú vào việc kiếm tiền, mua sắm, khoe của…

Ngoài kiến thức sâu rộng cho ngành nghề chuyên môn, giới trẻ quá bận rộn để có thì giờ tìm chiều sâu cho những đề tài sự kiện khác. Các kiến thức sẽ đến từ những mành vụn nhấp nhô (sound bites) qua TV, Facebook, Twitter…Hệ quả của sự phiến diện này là những quyết định dựa trên trào lưu, đám đông, và các thủ thuật “hướng dẫn dư luận” của nhóm lợi ích, nhóm chính trị gia, nhóm tư bản…

-Khung phát triển của văn hoá toàn cầu

Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là nền văn hoá toàn cầu sẽ đặt căn bản trên sự tự do lựa chọn, quyền phát biểu ý kiến cá nhân và việc theo đuổi mục tiêu hạnh phúc dựa trên mong muốn của mỗi người.

Căn bản này là thành tố của một thế giới dân chủ, cởi mở, bình đẳng về chính trị; một nền kinh tế hoàn toàn tuỳ thuộc vào thị trường và mọi liên thông dễ dàng về tài chánh, thương mại, giáo dục, thông tin.

Văn hoá là nền tảng của xã hội và con người

Tôi luôn tin rằng tư duy tạo hành động, hành động thành thói quen, thói quen trở nên định mệnh. Ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá sẽ đúc kết nên tư duy ban đầu và sau cùng định mệnh lại kết nối vòng tròn để tạo hình cho văn hoá.

Do đó, nếu đoán bắt được trào lưu văn hoá của người tiêu dùng, các doanh nghiệp sẽ hiểu mình cần làm gì để đáp ứng được nhu cầu của họ. Trong nền kinh tế thị trường, người bỏ tiền ra mua sản phẩm của bạn là nhân vật có tiếng nói sau cùng. Chuẩn bị cho nền văn hoá toàn cầu là sẵn sàng để đưa sản phẩm của mình tiếp cận với cả thế giới, đang biến đổi nhanh chóng và lan phủ khắp nơi.

Tóm lại, lực chuyển văn hoá sẽ:

-          Đem lại một thị trường thật rộng lớn nhưng đồng bộ và tương quan. Doanh nghiệp bắt buộc phải ra biển lớn để phát triển và tồn tại, ngay cà với những doanh nghiệp Mỹ hay Trung Quốc với thị trường nội địa khổng lồ. Yếu tố và bản sắc địa phương sẽ lần lần bị loại bỏ. Thay vào đó, sản phẩm phải có một góc cạnh gây ưa thích cho người tiêu dùng khắp thế giới.

-          Cơ hội sẽ mênh mông nhưng cạnh tranh cũng khắc nghiệt. Với thị trường và văn hoá toàn cầu, bất cứ sản phẩm nào vượt trội đối thủ cũng sẽ tạo cho doanh nghiệp “tiền tỷ USD trong thời gian rất ngắn”. Trò chơi Flappy Bird là một thí dụ quen thuộc của Việt Nam. Tiếc là người sáng lập tự rút lui, chứ nếu anh Nguyễn Hà Đông cứ tiếp tục cuộc chơi, anh sẽ là tỷ phú đô la chỉ trong vài ba tháng (so với thời gian các tỷ phú đô la khác của Việt Nam phải mất khi xây đế chế). Mặt trái của vấn đề là những cạnh tranh, rủi ro và thử thách cũng nhiều vô số kể.

 

-          Hệ thống chính trị và kinh tế sẽ phải thay đổi để sống còn trong một văn hoá toàn cầu.Sức ép của người dân mong muốn những tiện nghi và lợi ích của các quốc gia giàu có khiến nhà cầm quyền phải thay đổi cơ chế hay là tự huỷ diệt. Ngay cả một quốc gia độc tài, độc đảng và lớn mạnh như Trung Quốc cũng đang nói đến những điều chỉnh quan trọng về kinh tế và chính trị, dù quyền lực và quyền lợi của chính phủ và nhóm tư bản đỏ sẽ bị thiệt hại. Nếu không thay đổi, chúng ta sẽ chứng kiến những cuộc di dân âm thầm nhưng vĩ đại. Tinh hoa và thành phần tiến bộ của Trung Quốc sẽ tụ họp về những khu vực Âu Mỹ để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt của họ; để lại một Trung Quốc càng ngày càng yếu kém và mất nhiều lợi thế cạnh tranh trong cuộc chạy đua cùa các cường quốc.

-          Chu kỳ huỷ diệt (creative destruction) sẽ rút ngắn khiến mọi doanh nghiệp phải luôn sáng tạo và hào hứng. Đây là một đặc tính của tuổi trẻ, chuyên tìm những mới lạ. Chóng mê nhưng cũng chóng chán. Trong những thập kỷ tới, doanh nghiệp (hay quốc gia) không biết “tái sinh” sẽ trở thành những con khủng long trong viện bảo tàng. Tất cả quan tâm của những nhà đầu tư, những doanh nhân (đã hay chưa thành công) đều hướng về các công nghệ, phát minh, mô hình kinh doanh…có tính chất “phá hoại, phản động” gọi là disruptors. Không ai để ý đến những gì đã thành chuẩn mực.

Dù không kinh doanh mà chỉ tìm một việc làm để sự nghiệp thăng hoa, các bạn trẻ phải hiểu môi trường văn hoá mình đang đối diện. Các bạn phải biết đào tạo cho mình những kỹ năng thực dụng và hiểu rõ luật chơi. Nghiên cứu sâu rộng về đối thủ, về công nghệ, về mạng lưới phụ trợ (networking) cũng như biết rõ mục tiêu cùng nguyên tắc của dự án trước khi ra khơi. Không ai có thể đoan chắc về cơ hội thành công (thất bại sẽ chiếm một tỷ lệ rất cao); nhưng muốn thành một người có tự trọng, các bạn sẽ không có lựa chọn nào khác.

Leonard Da Vinci hiểu rõ tiến trình này,” những người thành đạt ít khi ngồi yên chịu đựng những sự cố xẩy đến cho họ. Họ bước ra và tạo sự cố – People of accomplishment rarelt sat back and let things happen to them. They went out and happened to things.”

Alan Phan

 

Tốc độ của công nghệ trong đời sống

Khi tôi đọc lại những sinh hoạt của các nhân vật trong tiểu thuyết của Balzac hay Steinbeck vài thế kỷ trước, tôi vẫn tìm thấy những thói quen hàng ngày của họ như trầm ngâm trước ly cà phê buổi sáng, chậm rãi lướt qua các tin tức bình luận trên mặt báo…không khác gì chuyện tôi vẫn làm xưa nay. Nhưng con cái tôi và các thế hệ sau này có thể không biết báo giấy là gì hay ai lại có thì giờ nhâm nhi ly cà phê? Ngày nay, chúng lướt qua các tin quan trọng đã tải sẵn trên Ipad hay Iphone, nốc cạn ly cà phê hòa tan và vội vàng đưa con nhỏ đi gởi nhà trẻ. Bửa ăn sáng là một thanh ngũ cốc (cereal bar) trong khi lái xe.

Tốc độ của công nghệ đã thay đổi thói quen trong đời sống và từ đó, tư duy của con người đã biến thiên tận gốc rễ.

Tôi còn nhớ vào năm 1982, một phái đoàn của GE Capital ghé thăm đảo Hải Nam (Trung Quốc) để thảo luận việc tài trợ cho vài dự án. Khác hẳn Bắc Kinh hay Thượng Hải, chúng tôi như quay về thế kỷ thứ 19. Chúng tôi bảo nhau nếu bây giờ, Thế Chiến Thứ Ba xẩy ra hay Tổng Thống Mỹ Reagan có bị ám sát, chắc chúng tôi sẽ hoàn toàn không hay biết trong 7 ngày nơi đây. Lý do là với 1 đài TV, 1 đài radio và 2 tờ báo toàn bằng Hoa ngữ, cộng với khó khăn khi dùng điện thoại liên quốc tế, sự cô lập của chúng tôi gần như toàn diện. Tuy nhiên, chỉ 20 năm sau đó, khu vực Tân Á phía nam đã trở thành một khu nghĩ dưỡng danh tiếng của Á Châu với hơn 15 khách sạn 5 sao.

Khi chúng tôi đi nước ngoài công tác vào thập niên 70, việc bực nhất là phải dùng điện thoại ở quốc gia sở tại kêu về trụ sở chính ở Mỹ. Thường thường, chúng tôi phải kêu tổng đài đặt hàng rồi đợi họ kêu lại cho mình khi họ tiếp nối được với điện thoại bên Mỹ. Thời gian chờ đợi có thề là 5 phút đến 50 phút. Và bạn không thể rời phòng, vì nếu tổng đài kêu lại bạn không được, họ cắt cuộc gọi và mình phải làm 1 cú đặt hàng khác. Nhiều khi cần đi vệ sinh cũng phải chào thua.

Nhưng sự lạc hậu của kỹ thuật truyền thông cũng giúp chúng tôi nhiều thời gian rãnh rỗi thú vị. Tôi nhớ khoảng cuối năm 1978, tôi và 2 nhân viên quản lý Mỹ vừa hoàn tất một hợp đồng cho Garuda thuê chiếc Boeing 727. Chúng tôi ra gởi nguyên tập hồ sơ qua PanAm để chuyển nhanh về New York cho ban pháp lý điều chỉnh và soạn bản văn sau cùng. Sau đó, chúng tôi có 3 ngày cùng 2 ngày cuối tuần để ăn chơi. Chúng tôi mời vài cô bạn gái Indo, bay xuống một khu nghĩ dưởng ở Bali bằng tiền của hãng (OPM) để tiệc tùng. Đó là một thú vui tuyệt vời. Khi kể chuyện lại cho một đồng nghiệp trẻ tháng rồi tại Mã Lai, anh ta ghen tị bực tức. Hợp đồng vừa thảo luận xong, anh Email về trụ sở New York. Sáng hôm sau, khi ngủ dậy là đã nhận nguyên văn bản đã chỉnh sửa để họp tiếp với các khách hàng địa phương.

Trong những thập kỷ vừa qua, chưa bao giờ công nghệ đột phá nhanh như vậy. Phải mất cả 10 ngàn năm để chiếc xe hơi thay con ngựa trong vận chuyển. Chỉ cần 100 năm để thói quen gởi thơ qua Bưu Điện gần như chấm dứt. Khi một CEO thuyết trình về dự án IT của anh về một công nghệ bán dẫn mới nhất cho các nhà sản xuất chips, chúng tôi hỏi anh rủi ro lớn nhất của dự án là gì. Anh nói rất bình thản,” tôi sợ rằng khi tôi bước ra khỏi đây thì công nghệ này có thể đã lỗi thời rồi.” Với công nghệ, Zuckerberg khởi nghiệp với 1 ngàn đô la trong căn phòng nội trú và xây Facebook thành một công ty thị giá 100 tỷ đô la trong 8 năm. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích IT cho là chỉ 15 năm sau, không còn ai dùng Facebook.

Ngày nay, các trẻ em ở Âu Mỹ cũng xa dần thiên nhiên và những vẻ đẹp đơn giản. Chúng bù đầu vào những video games, những lướt sóng trên mạng và text cho nhau qua điện thoại từ những căn phòng kín mít trong một nhà tù thoải mái. Thú lang thang thả diều trên đồi hay qua đồng cỏ chỉ còn hiện diện ở vùng quê vùng xa của các xứ nghèo. Khi tôi kể về thú hái hoa bắt bướm, hay đá dế, con trai tôi phê bình là “đồng bóng”, “man rợ”. Chúng không chấp nhận việc làm tổn thương bất cứ một sinh vật nào, nhưng lại reo hò khi giết người liên tục trong trò chơi của thế giới ảo.

Có lẽ đó cũng là một nghịch lý của cuộc cách mạng công nghệ. Thay vì cho chúng ta nhiều thời giờ hơn nhờ sự gia tăng hiệu năng, chúng lại đem đến cho chúng ta nhiều công việc hơn cùng với áp lực. Dữ liệu và kiến thức được tiếp cận dễ dàng với một số lượng “khủng” tạo nên một rối loạn về thứ tự ưu tiên cũng như về mức độ tin cậy.

Chúng ta có rất nhiều lựa chọn hơn nên năng động hơn trong sinh hoạt hàng ngày, nhưng nhận chịu nhiều thách thức đến độ chúng ta chỉ mong muốn được yên lặng, bất động và trống rỗng. Chúng ta muốn quay về những ngày xưa…khi những tấm lòng thương nhau còn biết cười nghiêng tà áo. Và những chiếc lá mùa thu vàng như tóc nàng công chúa trong một cổ tích mê hoặc nào.

Nhưng có lẽ đó chỉ là những ước mơ thóang qua. Dù chóng mặt vời tốc độ của công nghệ, việc quay về với trí tuệ của trăm năm trước vẫn có thể làm chúng ta kinh hoàng. Nhất là khi bị kẹt lại trong những quốc gia không bao giờ muốn thay đổi; với đám đông chung quanh, “đám mây kiến thức” là khoa học giả tưởng, “dư luận thế giới” là chuyện tào lao của bọn Tây Phương, “kinh tế thị trường” là khi các anh có đô la đợi sẵn ở Thụy Sĩ, “tài sản của nhân dân” là OPM, và “ngôi làng toàn cầu”  vẫn có cây đa cao ngất tầng xanh.

Tệ hơn hết là chúng ta vẫn làm những gì chúng ta đang làm, nhưng nếu năng đi chùa khấn vái thì dịnh mệnh sẽ đổi thay và đem chúng ta “tiền rừng bạc biển”.

T/S Alan Phan

Công nghệ đang “giết chết” sự tăng trưởng thần kỳ của châu Á

Những tiến bộ vượt bậc của ngành công nghệ ẩn chứa những tác động tiêu cực, thậm chí còn gây nên rủi ro không thể lường trước được cho các nước châu Á.

George Magnus, chuyên gia kinh tế đến từ ngân hàng UBS vừa có bản báo cáo phân tích dài 29 trang thảo luận về vấn đề liệu có phải cuối cùng thì phép màu của châu Á đã kết thúc.  Tờ Financial Times đã tóm tắt lại báo cáo này, phác họa lại vai trò của công nghệ và những ảnh hưởng đến tính năng động của thị trường châu Á.

Theo lập luận của tác giả, sự phát triển của công nghệ có thể “giết chết” châu Á theo 2 cách.

Thứ nhất, với công nghệ sản xuất tân tiến, các nước phát triển như Mỹ, 1 phần châu Âu và Nhật Bản, đang dần dần lấy lại được vị thế bởi họ có thể khai thác những nguồn năng lượng rẻ hơn.

Ví dụ như Mỹ, với việc dẫn đầu về công nghệ khai thác năng lượng giá rẻ từ đá phiến và các mỏ dầu, đang bắt đầu xoay chuyển bức tranh kinh tế toàn cầu. Các công ty Mỹ tận hưởng lợi thế chi phí năng lượng ở mức thấp đồng thời các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng về năng lượng có thể phát triển mạnh mẽ. Thêm vào đó, Mỹ cũng có thể hưởng lợi từ nhiều cách khác với việc trở thành nước xuất khẩu năng lượng hùng mạnh hơn, độc lập hơn.

Theo ước tính của Cơ quan thông tin năng lượng quốc tế (EIA), kim ngạch xuất khẩu khí gas của Mỹ có thể tăng gấp đôi vào năm 2020 và có thể đạt thặng dư vào năm 2025. Phát triển năng lượng giá rẻ có thể giúp giảm thâm hụt thương mại của Mỹ đồng thời giúp thu hút được rất nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực năng lượng.

Khai thác khí gas giá rẻ đã trở thành bước tiến công nghệ đáng chú ý nhất trong 1 thập kỷ vừa qua, đặc biệt là khi xét đến những ảnh hưởng trực tiếp đối với giá năng lượng. Hơn thế, rất có thể cuối cùng thì công nghệ này sẽ trở thành bước tiến công nghệ quan trọng nhất.

Không chỉ trong lĩnh vực năng lượng, xu hướng thay đổi công nghệ còn đang khiến bức tranh sản xuất toàn cầu thay đổi hoàn toàn. Nước Mỹ đã dẫn đầu hoạt động sản xuất cao cấp. Với điện thoại thông minh, máy tính thông minh, Mỹ có khả năng tạo ra những công ty thông minh và điều này đang phát huy tác dụng. Liệu những sản phẩm này có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Mỹ hay không vẫn là điều gây nhiều tranh cãi.

Tuy nhiên, đó chỉ là lát cắt của cuộc cách mạng công nghiệp mới đang bùng nổ trên thế giới với các công nghệ sản xuất vượt trội, đặc biệt là công nghệ in 3D. Theo các nhà phân tích, cuộc cách mạng này sẽ khiến các lợi thế quay trở lại với nước Mỹ và các nước phương Tây khác.

Giờ đây, hoạt động sản xuất không cần đến quá nhiều lao động. Do đó, các nước phương Tây không còn phải chịu thua thiệt từ dân số già và lực lượng lao động  bị thu hẹp. Lợi thế sẽ thuộc về các quốc gia gần với thị trường tiêu thụ và với những phát triển vượt bậc của công nghệ. Qui mô sản xuất lớn cùng với chuỗi cung ứng phủ khắp toàn cầu – 2 nhân tố định hình vai trò của châu Á nói chung và Trung Quốc nói riêng trên nền kinh tế toàn cầu – sẽ không còn quan trọng.

Tồi tệ hơn, chi phí lao động ở các nước như Trung Quốc còn tăng lên. Sức hút khổng lồ của Trung Quốc đối với các công ty phương Tây chưa hoàn toàn biến mất. Tuy nhiên, sức hút ấy đang bị phá hủy bởi chi phí lao động ngày càng tăng cao, những đảo lộn về chính sách, lo lằng về quyền sở hữu trí tuệ và cả tình trạng các tập đoàn lớn được hưởng quá nhiều ưu đãi.

Foxconn có thể là 1 ví dụ điển hình cho xu hướng này. Năm ngoái, công ty vốn chuyên gia công cho các hãng lớn như Apple, Sony và Nokia đã thông báo có kế hoạch đưa 1 triệu con robot vào hoạt động sản xuất trong vòng 3 năm tới.

Hiện nay, Foxconn có 1,2 triệu lao động. Như vậy, nếu quá trình tự động hóa được hoàn tất, rất nhiều lao động sẽ mất việc làm.

Tuy nhiên, đây mới chỉ là phần nổi của tảng băng. Kể cả khi Trung Quốc có thể bắt kịp với Mỹ, Nhật, Đức trên mặt trận cải tiến công nghệ sản xuất, không có lý do gì để các công ty nước ngoài thực hiện công đoạn gia công sản phẩm hoặc nhập khẩu nguyên liệu thô từ 1 đất nước xa xôi như vậy.

Trong khi đó, khả năng cạnh tranh về công nghệ của Trung Quốc vẫn là 1 dấu hỏi lớn. Chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) của Trung Quốc đã tăng mạnh và giờ đây Trung Quốc cũng là nước chi tiêu lớn thứ 2 thế giới xét về tỷ lệ (13,2% trong tổng số chi tiêu). Tuy nhiên, tổng chi phí của Trung Quốc chỉ bằng 1 nửa so với con số 330 tỷ USD của EU và bằng hơn 1/3 so với của Mỹ.

Xét về phương pháp sản xuất, tổ chức quản lý, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và các cải tiến về nguyên vật liệu, Trung Quốc đang bị bỏ lại khá xa so với nền kinh tế phát triển.

Trung Quốc cũng đã trở thành nước dẫn đầu thế giới xét về khối lượng đơn xin cấp bản quyền sáng chế và chỉ đứng thứ 2 sau Mỹ xét về số lượng các công trình nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, dường như Trung Quốc đang đi chệch hướng. Trên thực tế, Trung Quốc đang tụt hậu rất nhiều so với Mỹ và các nước châu Âu khác khi số lượng bản quyền được công nhận trên toàn cầu rất thấp.

Chỉ có ít hơn 6% số bằng sáng chế của Trung Quốc được bảo vệ trên toàn cầu. Trong khi đó, tỷ lệ ở Mỹ là 49%, Nhật Bản là gần 40%. Tỷ lệ bình quân trên đầu người các bài nghiên cứu khoa học được đăng trên các tạp chí khoa học hàng đầu còn thấp hơn nhiều so với các nước khác. Theo dữ liệu từ Thomson Reuters, tỷ lệ ở Trung Quốc là 0,54. Trong khi đó, ở Mỹ, Đức và nhiều nước Tây Âu khác là từ 10 trở lên.

Vấn đề nằm ở chỗ những yếu kém trong cải tiến và công nghệ của Trung Quốc bắt nguồn từ hệ thống văn hóa xã hội chú trọng vào giá trị thặng dư hơn là những thay đổi căn bản, đồng thời chú trọng số lượng hơn là chất lượng và sự độc đáo.

Do đó, rất dễ hiểu khi các nước khác trên thế giới – nơi chất lượng, sự cải tiến và độc đáo được tôn vinh – dễ dàng trở thành kẻ dẫn đầu cuộc chơi.

Không thể khẳng định rằng những vấn đề này sẽ mãi mãi làm giảm khả năng cạnh tranh về công nghệ của Trung Quốc cũng như châu Á. Tuy nhiên, có thể khẳng định chắc chắn rằng nếu như thiếu vắng những cải cách sâu rộng và từ gốc rễ, Trung Quốc sẽ mãi mãi bị tụt lại phía sau. Và, như vậy, Trung Quốc cũng như châu Á sẽ không còn có khả năng thay đổi diện mạo hoạt động thương mại và sản xuất trên toàn cầu như thời gian vừa qua.

Thu Hương

Lực Chuyển 2: Dòng Tiền Đầu Tư

Alan Phan

(Bài 3 trong loạt bài Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới ). Link

http://www.gocnhinalan.com/blog-cua-alan-va-bca/nhung-luc-chuyen-cua-hai-thap-ky-toi.html

25/6/2014

Một nghiên khảo tôi đọc đã lâu nêu ra một điều buồn cười về Liên Xô (thực ra là một thảm kịch cho người dân Nga) là trong thời gian đảng Cộng Sản cầm quyền từ 1946 (sau chiến thứ 2) đến năm 1975 (14 năm trước khi sụp đổ), nếu chánh phủ độc tôn Liên Xô chỉ bán khoáng sản, tài nguyên… rồi cả nước ngồi không ăn chơi, thì thu nhập quốc gia và cá nhân cũng không thay đổi chút gì trong 30 năm đó. Thay vì ngồi yên, họ lập ra đủ kế hoạch 5 năm, 10 năm, 100 năm…với những bộ não thuộc loại đỉnh cao của loài người để vận hành kinh tế. Kết quả? Người dân Nga phải làm nô dịch theo mệnh lệnh của quan chức, phải đi kinh tế mới và làm chuyện tào lao theo chính sách mù mờ, phải vào nhà thương điên ở vùng băng giá Siberia (gọi là gulag) …và phải xếp hàng vài tiếng mỗi ngày để mua một miếng thịt hay cái quần lót…

Các nước Cộng Sản, bây giờ và quá khứ, là những minh chứng hùng hồn cho thấy sự phát triển kinh tế toàn cầu không chỉ tuỳ thuộc vào “labor”, sức lao động của công nông dân như Marx biện luận. Liên Xô không thua Âu Mỹ về bất cứ thành tố gì từ tài nguyên thiên nhiên, trí tuệ khoa học, đến số lượng lao động, khả năng quản trị…Ngoại trừ một thứ: tư bản.

Một cô gái đứng đường cũng hiểu rõ quy luật này hơn cả những chuyên gia đại học hàng đầu của các đảng Cộng Sản: No money, no honey.

Trung Quốc thường được ca ngợi là hiện tượng thành công lịch sử trong việc điều hành kinh tế. Nhưng yếu tố quan trọng nhất mà các nhà phân tích hay bỏ qua là sự đóng góp của dòng tiền từ nước ngoài vào sự thịnh vượng này. Nếu không có những tư bản lúc đầu từ Hoa Kiều và sau đó, từ các quốc gia Âu Mỹ Nhật, máy bay kinh tế tài chánh Trung Quốc sẽ không có đủ nguyên liệu để cất cánh.

Dĩ nhiên, căn bản của lực chuyển kinh tế phải dựa trên quyền tư hữu cá nhân. Và thể hiện rõ nhất trong mọi tài sản là “tiền”. Tôi không biết có bao nhiêu cuốn sách đã xuất bản về các triết thuyết kinh tế và bàn luận về những yếu tố chính trị, xã hội, văn hoá, lao động, trí thức, quản trị…để đem tới một thành công sau cùng. Theo quan sát của riêng tôi, “tiền” vẫn là một thành tố quan trọng nhất.

Trong thời đại Internet, mọi người (kể cả tôi) vinh danh “trí tuệ”, “sáng tạo” và “mô hình phản động” (disruptors) như những động cơ khởi nghiệp sắc bén. Những ví dụ thành công thì đầy dẫy tại Silicon Valley, tại Wall Street, tại Hollywood… Tuy nhiên, nếu không có dòng tiền từ chứng khoán, từ IPO, từ M&A, từ venture capitalist, từ đủ loại quỹ đóng mở, từ các nhà đầu tư nước ngoài, từ ngân sách các chánh phủ…thì hiện tượng trăm hoa đua nở tại các điểm đến của tương lai này cũng chỉ èo uột như mùa gặt trong thời hạn hán.

Dĩ nhiên, có những thời kỳ dòng tiền chẩy sai vào chỗ trũng tạo nên bong bóng mà mọi người liên quan phải trả giá đắt, như dotcom cùa 1997, như bất động sản Mỹ của 2006, như đại suy thoái cùa 1929… Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn một điều: dòng tiền chảy đến đâu thì tăng trưởng kinh tế và ngành nghề sẽ đơm hoa nở nhuỵ. Ít nhất trong một thời gian khá dài (5 đến 10 năm). Sau đó nếu có sai trật, thị trường sẽ điều chỉnh, nhanh hay chậm tuỳ môi trường và cơ chế.

Do đó, chúng ta có thể bắt đoán thời cơ và soạn ra chiến lược kinh doanh dựa trên dòng chảy của tư bản. Như các thám tử, muốn tìm thủ phạm của các vụ án, thì cherchez la femme.

Trước khi tiếp tục, tôi xin tạm quay về những nguyên tắc và thành phần căn bản của dòng tiền thế giới để những bạn chưa nắm vững về vận hành tài chánh hiểu thêm phần sau của bài viết.

Theo McKinsey, năm 2012, lưu lượng dòng tiền chảy quanh thế giới vào khoảng 26 ngàn tỷ USD mỗi năm, hay khoảng 36% GDP của toàn thế giới. Tuy nhiên, đến năm 2025, lưu lượng sẽ tăng lên 85 ngàn tỷ USD. Hiện nay, tổng số tài sản của thế giới tính theo giá trị tài chánh (financial assets) lên đến 900 ngàn tỷ USD. Tất cả những con số trên không bao gồm những phi vụ rửa tiền, trốn thuế hay qua chợ đen etc…Có quá nhiều kênh cho dòng chảy và phần lớn không liên quan đến xu hướng đầu tư. Hai kênh lớn nhất là tiền thanh toán cho các dịch vụ và thương mại (xuất nhập khẩu, du lịch…) và tiền quay trục quanh các ngoại hối để kiếm lời bằng arbitrage (sự khác biệt trên các thị trường).

Còn lại là tiền đổ vào chứng khoán (stock), trái phiếu (bond), giấy nợ (tiền tiết kiệm hay phí bảo hiểm là loại giấy nợ của ngân hàng hay công ty insurance), chứng chỉ phái sinh (derrivatives), v.v… Hai dòng tiền chúng ta phải lưu ý đến nhiều nhất là tiền mặt của các công ty hay của cá nhân (để đầu tư trực tiếp hay gián tiếp) và tiền của các quỹ đầu tư, từ quỹ mutual có cả trăm tỷ USD tài sản đến những quỹ hedge fund nhỏ, từ quỹ đóng đến quỹ mở, từ quỹ đã niêm yết đến quỹ tư nhân. Một số tiền khá lớn cũng đã được những doanh nhân thành đạt đổ vào các quỹ từ thiện, cũng như số tiền tài trợ từ các tổ chức chánh phủ và phi chánh phủ…nhưng chúng nằm ngoài tầm phân tích của bài viết này.

Mục tiêu lý tưởng của dòng tiền đầu tư là tìm lợi nhuận cao nhất với rủi ro ít nhất trong thời gian ngắn nhất. Tuy nhiên, khó ai có thể đạt tất cà ước muốn này trong một thị trường tài chánh tự do. Do đó, các nhà quản lý quỹ thường hoạch định một chiến lược riêng của quỹ và bán dịch vụ của mình cho các nhà đầu tư thích hợp với chiến lược này.

Chẳng hạn có những nhà đầu tư giữ tiền lương hưu cho vài trăm ngàn thành viên. Họ rất bảo thủ và chấp nhận lời ít nhưng tỷ lệ an toàn phải tuyệt đối cao. Trong khi đó một tỷ phú trẻ vừa kiếm tiền khủng qua M&A của công ty khởi nghiệp sẽ sẵn sàng nhận rủi ro cao để roll the dices (đánh bạc) với các venture capitalists. Nhiều quỹ thích những thị trường mà họ thông hiểu (Âu Mỹ Nhật) cùng những công ty lớn, đa quốc…có tài chánh vững vàng. Nhiều quỹ mạo hiểm vào các thị trường mới nổi (BRICS) hay cả thị trường ngoại biên (frontier market như Việt Nam, Pakistan, Nigeria…).

Trong bức tranh vân cẩu phức tạp đó, chúng ta vẫn có thể tìm ra một xu hướng chung của các dòng tiền đầu tư. Dòng tiền này lại phân ra thành hai loại: FDI (đầu tư trực tiếp như mở cơ xưởng, mua bất động sản hay M&A) và IDI hay portfolio investment (đầu tư gián tiếp vào chứng khoán, trái phiếu, giấy nợ…). Thời hạn đầu tư của FDI thường kéo dài từ vài năm đến vài chục năm, theo tầm nhìn chiến lược của nhà đầu tư; trong khi IDI thì muốn “mì ăn liền” đôi khi chỉ vài ngày (nhưng vẫn có nhiều ngoại lệ).

Hiện nay, trong khuynh hướng “chuyển trục” của toàn cầu, phần lớn các nhà phân tích đều cho rằng dòng tiền đầu tư dưới mọi dạng đang quay lại với những nền kinh tế phát triển, đặc biệt là USA, vì các nguyên nhân sau đây:

-          Thất vọng với sự suy giảm tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi trong khi những yếu tố rủi ro lại gia tăng

Trong nhiều năm trở lại đây, các nhà đầu tư đã thất vọng nhiều với mức tăng trưởng của nhiều quốc gia mới nổi mà chỉ 10 năm trước, họ cho là sẽ khống chế kinh tế toàn cầu vì sức năng động và nhu cầu lớn của giới trung lưu tại những xứ này. Thất vọng lớn nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Cả hai siêu cường kinh tế tiềm năng này đều có những dấu hiệu mệt mỏi, bất ổn và ẩn chứa nhiều scandal kinh tế đang chờ phát hiện. Chính các nhà đầu tư người Trung Quốc và Ấn khởi động một capital flight khỏi quốc gia họ; và ảnh hưởng nhiều đến niềm tin của những nhà đầu tư ngoại khác. Ở một tỷ lệ nhỏ hơn, Brasil, Nga và Thai Lan, Indonesia, đang bị suy trầm về kinh tế vì nhiều yếu tố khác nhau, nhưng dòng tiền đầu tư bắt đầu chấp cánh bay về chân trời mới.

Những kỳ vọng lớn lao về sự đột phá của các quốc gia như Việt Nam, Pakistan, Nigeria…đã tan biến theo những bong bóng tài sản, tệ trạng tham nhũng và sự thiếu minh bạch của những công ty địa phương.

-          Kinh tế Âu Mỹ đang hồi phục và căn bản pháp trị, dân chủ, tự do…bảo đảm một mức độ an toàn hơn cho dòng tiền đầu tư

Trong khi đó, sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 ở Mỹ và sau tình trạng bờ vực của đồng Euro vào 2009, nền kinh tế Âu Mỹ đã hồi phục. Năm nay, tăng trưởng GDP của Mỹ dự đoán ở mức 3.8%, tỷ lệ thất nghiệp xuống 6.1% (thấp nhất từ 2007), một kết quả khá tốt cho người khổng lồ.

Trên hết, không quốc gia nào trên thế giới có thể sánh với Âu Mỹ Nhật về hệ thống kinh tế tự do trên một căn bản pháp trị nghiêm khắc và minh bạch. Một thí dụ: bạn có thể tư hữu bất cứ bất động sản hay chứng khoán nào của Mỹ mà không cần phải minh chứng quốc tịch, mầu da, hộ khẩu, lý lịch cách mạng v.v…Quyền tư hữu cá nhân được bảo vệ đến mức linh thiêng: ngay cả cảnh sát cũng không thể bước vào nhà bạn nếu không được phép, của bạn hay của toà án.

Đây là lơi thế cạnh tranh lớn nhất của những quốc gia Tây Phương về sự thu hút dòng tiền đầu tư.

-          Lơi nhuận cùa những công ty Âu Mỹ đang gặt hái những kết quả tốt nhất từ mấy thập kỷ qua.

Thị trường chứng khoán liên tiếp lập đỉnh mới cho chỉ số Dow và Nasdaq trong suốt 5 năm vừa qua. Chỉ số Dow Jones từ 8,500 vào 2008 đã đạt 17,000 hiện nay. Nhiều người cho rằng đây là hiện tượng bong bóng đang hình thành. Tuy nhiên, phần lớn các nhà phân tích đều nghĩ rằng “lơi nhuận” của những công ty niêm yết càng tăng thì theo tỷ lệ P/E, giá chứng khoán phải tăng theo như quy luật vận hành.

Số lợi nhuận khủng của các công ty Âu Mỹ đang tăng trưởng cao nhờ những cắt giảm chi phí tối đa khi họ đối diện với khủng hoảng kinh tế tài chánh vĩ mô vài năm trước. Các lý do khác là nhờ sự thịnh vượng chung của người tiêu dùng và hiệu năng của công nghệ hiện đại (xem phần dưới).

-          Hoạt động M&A đang gia tăng mạnh nhờ khối tiền mặt dự trữ lớn của các blue chips.

Một phần của đáp số về bài toán tăng trưởng cho giá chứng khoán Âu Mỹ cũng nằm trong cơ hội M&A, nơi những con cá mập đa quốc với số tiền cash dồi dào (nhờ lợi nhuận, lãi suất ngân hàng thấp và giá cổ phiếu tăng) đang cố gắng thu tóm các địch thủ nhỏ hơn để bành trướng. Những phi vụ M&A chục tỷ đô la của các công ty dược phẩm như Pfizer, viễn thông như Verizon…hay IT như Facebook, Google, Microsoft…đã tạo nên những cơ hội kiếm lời khủng cho số đông nhà đầu tư. Dòng tiền đang đổ mạnh vào lãnh vực này để lướt sóng và đoán bắt cơ hội.

Một thí dụ của sức mạnh cash đem tới trong M&A là tiền mặt dự trữ của công ty Apple hiện nay lên đến 137 tỷ đô la. Để so sánh, quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam cuối 2013 là 33 tỷ đô la (theo lời khoe của chánh phủ).

-          Công nghệ mới đem một sinh khí sáng tạo và hào hứng cho môi trường kinh doanh

Trong khi đó, môi trường kinh doanh tại Mỹ có thể được mô tả như là sống động với những thiên tài trẻ, sáng tạo, đam mê và mức độ chấp nhận rủi ro rất cao. Một cuộc viếng thăm Silicon Valley sẽ làm bạn kinh ngạc với thế giới mới của một thế hệ mới không bị ràng buộc bởi bất cứ quy luật nào. Chỉ cần một ý tưởng phản động (disruptive) cộng với sự hợp tác của vài bạn bè và một chuyên gia tài chánh, bạn có thể kiếm cả tỷ đô la trong vài năm (ở Việt Nam có thể đi tù vài năm). Những thí dụ diển hình là sự thành công của Uber (hệ thống taxi dùng xe tư nhân), Dropbox (chứa dữ liệu trong đám mây), What’s App (Facebook vừa mua lại với giá 19 tỷ USD)… Ngoài IT, các lĩnh vực y tế, sinh hoá học (biotech), dịch vụ tài chánh ngay cả công nghệ cũ …cũng đã đem nhiều tỷ đô la cho những doanh nhân của thế hệ U-40 như Kickstarter (crowdfunding), Tesla (xe sports dùng điện lực)….

15 năm trước, khi một công ty niêm yết đạt thị giá 1 tỷ đô la, các mạng truyền thông ào ạt ra tin tức và xin phỏng vấn. Ngày nay, nếu công ty bạn được “cá mập” chào mua với giá 1 tỷ đô la, có lẽ phi vụ chỉ được ghi vào một tin nhỏ ở trang phụ không quá 10 dòng.

Tiền sinh ra tiền. Khi những dòng tiền tụ về một nơi, chúng sinh con đẻ cái không biết cơ man nào mà kể.

-          Với hiệu năng đột phá nhờ công nghệ IT cùng robot,  chi phí cao cho nhân viên không còn là một rào cản lớn trong toàn bộ phí sản xuất

Sự sáng tạo của Silicon Valley đã đóng góp rất nhiều vào mọi hoạt dộng kinh tế khác trên toàn cầu, ngay cả trong những lãnh vực không liên quan, như nông nghiệp và sản xuất. Các trang trại nông thôn của Mỹ hiện nay không thiếu những công cụ như máy bay không người lái (drones) để rải giống, bón phân, sát trùng…, hệ thống tưới và thải nước do robot điều khiển, hạt giống được biến chất DNA để có năng suất cao nhất, các phần mềm phân tích thị trường và khí hậu để “timing” về thời điểm trồng và gặt, máy đo lường khí hậu, độ ẩm, báo nguy…tân tiến hơn các máy tại những phòng lab của viện đại học cách đây vài chục năm..

Các nhà sản xuất công nghiệp đã bắt đầu quay lại mẫu quốc để đầu tư, nhất là khi chi phí sản xuất tại Trung Quốc sẽ ngang hàng với Mỹ kể từ 2016 (theo McKinsey report). Dù phí nhân công Mỹ vẫn cao hơn gấp mấy lần Trung Quốc nhưng thế cân bằng đã tạo được nhờ sự sử dụng robots (40% nhân công Mỹ sẽ bị robot thay thế trong 20 năm tới), hiệu năng của công nhân Mỹ, giá năng lượng rẻ, phí vận chuyển ít và sản xuất tại Mỹ sẽ tránh được nạn ăn cắp “tài sản trí tuệ”.

-          Người tiêu thụ giàu hơn nên sẵn sàng trả một giá cao hơn đề có hàng hoá chất lượng, thương hiệu và phục vụ (customer service). 

Gần đây, Walmart, hệ thống bán lẻ cho thành phần thu nhập thấp tại Mỹ, bắt đầu quảng bá khẩu hiệu “người Mỹ dùng hàng Mỹ”. Hiện nay, hàng sản xuất Mỹ đắt hơn hàng Trung Quốc từ 10% đến 25% theo giá bán lẻ, tuỳ mặt hàng. Tuy vậy, với đa số người dân Mỹ, trả thêm ít tiền trong ngắn hạn để hưởng thú tư hữu dài hạn vẫn là một giải pháp tốt. Họ được bảo đảm về chất lượng, về thương hiệu đứng sau sự bảo đảm, về dịch vụ hậu mãi (nếu cần đổi hay sửa chữa…).

Ngay cả tại thị trường các nước mới nổi, người tiêu dùng có khả năng tài chánh cũng ưa chuộng hàng Âu Mỹ hơn. Một lý do nữa là những chất độc hại quá nhiều trong các sản phẩm từ Trung Quốc bao gồm thực phẩm, đồ chơi trẻ con, ngay cả quần áo, vật dụng tiêu dùng…Hiện trạng đang lan phủ và có thể ảnh hưởng đến danh tiếng (xấu) của các quốc gia mới nổi khác mô chép mô hình kinh doanh của Trung Quốc như Việt Nam.

Như đã trình bày, mỗi nhà đầu tư, mỗi quản lý quỹ…đều có những tầm nhìn chiến lược khác nhau. Cho nên, dòng chảy của mọi nguồn tiền rất đa dạng và khó đoán. Ông Warren Buffett gần như không đầu tư chút nào vào các công ty IT, ngay cả trong thời điểm bong bóng dotcom vào 1997 và hiện nay. Tuy nhiên, nếu doanh nhân muốn tạo một tài sản khổng lồ như Steve Jobs (Apple) vào 1975 hay Jeff Bezos (Amazon) vào 1994, họ phải biết xu hướng của dòng tiền và những cơ hội, lực chuyển ngắn cũng như dài hạn. Đi ngược với trào lưu cũng có thể mang đến những thành công bất ngờ, nhưng tỷ lệ xác suất sẽ rất thấp.

Các doanh nhân ở các nước mới nổi thường coi tài sản lớn nhất của công ty là mối quan hệ hay thế chống lưng từ vài quan chức quyền lực. Mô hình kinh doanh này bắt đầu rã đám dần dần từ Trung Quốc và khó thể xuất khẩu đến các thị trường lớn mạnh của Âu Mỹ Nhật. Dòng tiền đầu tư đã chuyển hướng và chỉ trong 2 thập kỷ tới, nếu Trung Quốc không thay đổi, nền kinh tế mà mọi người ca tụng hôm nay sẽ chỉ là một chú thích trong lịch sử.

Hai câu nói rất nhàm tai của Tôn Tử nhưng cho đến giờ này tôi vẫn thuộc nằm lòng,”biết người biết ta”  “kết quả của trận đấu đã được định đoạt trước giờ khai hoả”…

Alan Phan

Dòng Tiền Từ Singapore

 

Alan Phan

16 April 2014

Nhân cuộc phỏng vấn của báo VNExpress (đăng vào ngày 17/4/2014), tôi xin chia sẻ thêm về tình hình kinh tế tài chánh tại xứ này.

Trước hết, có vài lý do khiến các nhà tài chánh Singapore đổ tiền vào thị trường Việt Nam:

1. Hiện nay, Singapore đang được các nhà đầu tư từ Mỹ, Âu, Úc và nhất là Trung Quốc đem tiền đến ủy thác, vì sự tín nhiệm Singapore đã tạo được trong việc điều hành kinh tế và thị trường tài chánh trong 2 thập kỷ rồi. Vì sự thặng dư tiền gởi lên đến mức đỉnh, nên các định chế tài chánh Singapore bắt buộc phải tái đầu tư vào các nơi khác.

2. Với dân số ít ỏi và thị trường nội địa eo hẹp, Singapore luôn tìm một chân đứng bên ngoài. Bốn nước Indonesia, Việt Nam, Thái Lan và Myanmar được coi như đối tác chiến lược tại ASEAN. Cần lưu ý là dòng tiền Singapore vẫn ưu ái với Indonesia và Thái Lan hơn.

3. Vì các nhà đầu tư Trung Quốc đang có khuynh hướng “capital flight” (trốn khỏi Trung Quốc) nên dòng tiền đã chảy rất mạnh vào Âu Mỹ Úc và hai trung tâm tài chánh tự do nhất Á Châu: Hồng Kông và Singapore.

Dòng tiền này đã tạo nên nhiều bong bóng tài sản, nhất là bất động sản, tại Singapore. Nguy cơ lạm phát kèm với sự cố “vỡ bong bóng” khiến chánh phủ Singapore phải khuyến khích các định chế tài chánh đem tiền ra nước ngoài nhằm làm nguội bớt sức ép.

4. Hiện tượng này sẽ tiếp tục trong 3 năm tới. Nhiều chuyên gia tiên đoán là trong khoảng thời gian này, hay ngay sau đó, Singapore có thể phải chịu đựng một cuộc khủng hoảng tài chánh khá lớn. Nó sẽ xẩy đến khi một trong những sự cố sau đây xuất phát:

Một, dòng tiền từ Trung Quốc ngừng chảy vì nhiều lý do: khủng hoảng nợ xấu tại Trung Quốc đạt điểm “no return”; chánh phủ Trung Quốc siết chặt tín dụng (đã đến 23 ngàn tỷ đô la) và kiểm soát “capital flight”; hay biến loạn kinh tế và xã hội tại Trung Quốc bùng nổ.

Hai, các tài sản mà định chế tài chánh của Singapore tái đầu tư vào quanh ASEAN sẽ sụt giá trầm trọng. Ai cũng biết là bong bóng bất động sản tại Indonesia hay Việt Nam cũng to lớn không kém Singapore và khả năng nợ xấu còn cao hơn nhiều. Cổ phiếu tại Việt Nam, Thái Lan và Indonesia đang bị “làm giá” và “thổi phồng” với sự thiếu minh bạch và nhiều số liệu thống kê giả tạo.

Ba, chánh phủ Singapore (MAS: Monetary Authority of Singaore) không thể giữ lãi suất gần như zero sau khi Mỹ và Âu Châu thả lỏng lãi suất của họ. Điều này có thể là “trigger” (mồi lửa) để làm vỡ bong bóng tài sản và tạo nhiều nợ xấu cho các ngân hùng nội địa vì tín dụng cho người tiêu dùng đã gia tăng đáng ngại (tăng 48% từ 5 năm nay).

Do đó, có thể kết luận là Singapore đã đỡ cho khủng hoảng tài chánh và bong bóng nợ xấu tại Việt Nam phần nào khi chia sẻ với Việt Nam số tiền đầu tư từ Âu Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, cuộc chơi có thể tàn bất cứ lúc nào trong vài năm tới. Khi Singapore ngồi tiếc rẻ thời vàng son bây giờ thì nhiều doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam tùy thuộc vào dòng tiền cũng sẽ cháy túi theo.

Alan Phan

Bài từ VNExpress:

 


Ngày cập nhật 2014/11/07 Tác giả: VNE





Tag:
Hỗ trợ trực tuyến

 

0835570473 - Họa sĩ Minh Tâm vẽ tranh Phong Thủy và Tôn Giáo

---

0938168807 (Marina)

Hình Ảnh Dự Án

Liên Kết Website

BACK TO TOP