Thách thức đại chiến lược Trung Quốc: Xây đảo trên Biển Đông

Description: 1535847_-_main

Tác giả: Alexander Vuving, “China’s Grand-Strategy Challenge: Creating Its Own Islands in the South China Sea”, The National Interest, 8/12/2014.

Biên dịch & Hiệu đính: Nguyễn Quang Khải

Những hình ảnh chụp từ vệ tinh được tờ tạp chí tình báo quốc phòng IHS Jane’s phân tích cho thấy Trung Quốc đang xây dựng trên Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa một doi đất mang hình dáng sân bay dài 3.000m và một hải cảng đủ lớn cho các tàu chở dầu và tàu chiến lớn neo đậu. Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc làm vậy, đảo này là hòn đảo mới nhất được Trung Quốc xây dựng trong chuỗi hành động xây đảo lấn biển mà nước này đang tiến hành ở cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trên biển Đông.

Trung Quốc xây đảo để làm gì? Mục đích tối thượng của những dự án này là gì? Lăng kính thông thường chúng ta sử dụng để giải mã các động thái chiến lược trên trường quốc tế không phù hợp để trả lời những câu hỏi ấy. Lăng kính thông thường nhìn trò chơi giữa các quốc gia dưới góc độ cờ vua, nhưng ở biển Đông, Trung Quốc lại đang chơi cờ vây.

Cờ vây (weiqi) là loại cờ cổ xưa nhất Trung Hoa (được biết đến ở phương Tây qua tên gọi của người Nhật là go), mang nhiều điểm tương đồng với một dòng tư duy chiến lược truyền thống có nhiều ảnh hưởng của Trung Hoa. Trong khi cờ vua là trò chơi chiếu tướng thì cờ vây, như tên gọi của nó, lại là trò bao vây. Trong cờ vây, không có vua, hậu hay tốt mà chỉ có những quân cờ giống nhau, quyền lực của chúng phụ thuộc vào vị trí của chúng trong tương quan rộng lớn hơn trên bàn cờ. Nếu như cờ vua là cuộc chiến giữa hai đội quân thì cờ vây là cuộc chiến của những tính toán định hình bàn cờ. Người chơi cờ vua giỏi nhắm đến việc đập tan sức mạnh cứng của đối phương, người chơi cờ vây giỏi nhắm đến việc kiểm soát các vị trí chiến lược, từ đó lan tỏa sức mạnh dựa trên vị trí.

Nếu coi biển Đông là một bàn cờ vua thì những động thái của Trung Quốc ở đó hầu như chỉ là vặt vãnh. Hầu như chỉ có tốt tiến quân, trong khi những quân cờ quyền lực hơn không có mấy động thái. Có lẽ vị trí đáng gờm nhất trên bàn cờ là căn cứ tàu ngầm hạt nhân ở Du Lâm phía nam đảo Hải Nam. Tuy nhiên, căn cứ này không nằm trong vùng biển tranh chấp. Quân đội hiếm khi là lực lượng chính tham gia vào tranh chấp biển Đông, mà chủ yếu là tàu đánh bắt cá và tàu hải giám. Và tâm điểm tranh chấp lại là những đá nhỏ, không thể cư ngụ và thường chìm.

Thoạt nhìn trò chơi này dưới góc độ cờ vua, một nhà ngoại giao kỳ cựu của Mỹ từng nói “các cường quốc không gây chiến với nhau chỉ vì những hòn đá” và một học giả hàng đầu về hàng hải Trung Quốc kết luận “những căng thẳng giữa một cường quốc mới nổi và các nước láng giềng là tự nhiên và không cấu thành mối đe dọa đáng kể nào đối với cân bằng quyền lực toàn cầu cũng như hoạt động bình thường của hệ thống quốc tế.”

Nhưng dưới con mắt của người chơi cờ vây, những gì mà Trung Quốc làm ở biển Đông là ví dụ kinh điển cho thấy nước này đã chơi môn cờ vây tài tình thế nào. Mục đích tối thượng là nhằm kiểm soát khu vực. Chiến lược để đạt được mục đích này dựa vào việc lấn dần, chứ không phải những trận giao tranh lớn. Lấn dần (creeping expansion – hay tằm ăn dâu – NBT) là một chiến lược đã được thực hiện trong suốt nhiều thập kỷ. Song song với chiến lược này là chiến lược cắt lát salamingoại giao gậy nhỏ (small-stick diplomacy – tức đe dọa ở mức độ vừa phải – NBT). Logic ẩn dưới đó là dần dần biến chuyển tình hình theo hướng có lợi cho sự bành trướng của Trung Quốc bằng cách khéo léo dùng thủ đoạn thay đổi thế chiến lược trong khu vực.

Chiến lược này đòi hỏi một số bước đi cần thiết, thực hiện tuần tự. Đầu tiên là hết sức tránh các cuộc xung đột vũ trang công khai; có thể khởi phát xung đột nhỏ, nhưng việc ấy chỉ được thực hiện nhằm lợi dụng tình hình vốn đã có lợi cho Trung Quốc. Bước thứ hai là kiểm soát những điểm chiến lược nhất trên biển; nếu không kiểm soát từ trước thì có thể lén lút chiếm, thậm chí có thể có xung đột nhỏ nếu cần. Bước thứ ba là phát triển những điểm đó thành điểm kiểm soát mạnh, tích cực xây dựng các trung tâm hậu cần và căn cứ hiệu quả để phô trương sức mạnh. Lịch sử can dự của Trung Quốc ở xung đột biển Đông cho thấy nước này đã theo sát những đường đi nước bước kể trên.

Mặc dù Trung Quốc sẵn sàng lao vào đối đầu quân sự, nhưng nước này vẫn thường tránh viện đến các cuộc chiến vũ trang lớn để mở rộng không gian kiểm soát. Trong suốt sáu mươi năm qua, chỉ có hai lần Bắc Kinh xung đột quân sự để chiếm đảo. Lần thứ nhất vào tháng Giêng năm 1974 với Việt Nam Cộng hòa, kết thúc với việc Trung Quốc chiếm nửa phía Tây của quần đảo Hoàng Sa, nhóm đảo Lưỡi Liềm. Lần thứ hai là một xung đột nhỏ hơn nhiều, nhưng cũng không kém phần đẫm máu với nước Việt Nam thống nhất tại Đá Gạc Ma hồi tháng Ba năm 1988.

Điểm đáng chú ý ở hai lần đối đầu này là chúng đều xảy ra khi trong khu vực này xuất hiện một khoảng trống quyền lực lớn. Lần thứ nhất, Mỹ đang rút quân khỏi khu vực này, và lần thứ hai là khi Liên Xô rút dần sự hiện diện. Trong cả hai lần, Trung Quốc đều được hưởng lợi từ cái gật đầu ngầm của Mỹ, nhân tố quyền lực nhất ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương mở rộng. Vì thế, những cuộc xung đột quân sự ấy không gây ra nhiều hệ lụy về mặt ngoại giao (cho Trung Quốc).

Bước đi thứ hai được phản ánh rất rõ trong cách Bắc Kinh chọn các địa điểm chiếm đóng trong khu vực đang tranh chấp. Khi Trung Quốc và Việt Nam tranh giành vị thế ở quần đảo Trường Sa năm 1988, Trung Quốc đã chọn chất lượng bù số lượng. Trung Quốc chiếm 6 đảo trong khi Việt Nam chiếm 11 đảo. Nhưng năm trong số sáu đảo đó là những vị trí chiến lược nhất trong quần đảo.

Lựa chọn đầu tiên của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa là Đá Chữ Thập, một trong những đảo tốt nhất trong quần đảo xét về vị trí và khả năng mở rộng. Rạn san hô này án ngữ vị trí lý tưởng cửa ngõ phía Tây của quần đảo Trường Sa và là một trong số ít các địa vật trong quần đảo này gần các tuyến hải hành xuyên đại dương đi qua biển Đông. Đá Chữ Thập không quá gần cũng không quá xa các nhóm đảo khác, lợi thế giúp giảm khả năng bị tấn công đồng thời mở rộng không gian ảnh hưởng.

Ngoài ra, Đá Chữ Thập còn chiếm một khu vực rộng 110 km vuông, một trong những địa vật lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Bốn trong số năm địa vật còn lại là đá Subi, đá Gaven, đá Gạc Ma và đá Châu Viên nằm ở rìa bốn nhóm đảo khác nhau, từ đó có thể kiểm soát một vùng biển rộng lớn và những tuyến hải hành chủ chốt ở quần đảo Trường Sa. Sau này Trung Quốc còn chiếm thêm hai địa vật nữa cũng có giá trị chiến lược vô cùng to lớn.

Đá Vành Khăn mà Trung Quốc lén lút chiếm của Philippines hồi cuối năm 1994, đầu năm 1995 nằm ngay trung tâm cánh phía đông của quần đảo Trường Sa và rất gần các tuyến hải hành trọng điểm dọc phía đông biển Đông. Bãi cạn Scarborough mà Trung Quốc chiếm năm 2012 với chiến lược ngoại giao gậy nhỏ và “ngoại giao lật lọng” (double-dealing diplomacy)[1] bao quát góc đông bắc biển Đông và là chốt canh lý tưởng nhằm kiểm soát các tuyến hải hành chính qua khu vực này.

Với việc kiểm soát quần đảo Hoàng Sa, bãi cạn Scarbourough và các đảo nhân tạo chiến lược khác trong quần đảo Trường Sa, Trung Quốc có lợi thế hơn bất cứ nước nào khác trong việc kiểm soát cái mà Robert Kaplan gọi là “yết hầu của các tuyến đường biển toàn cầu”. Chẳng hạn, đảo Phú Lâm (đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa), Đá Chữ Thập, Đá Vành Khăn và bãi cạn Scarborough tạo thành một chòm sao bốn điểm với bán kính chỉ 250 hải lý từ đó có thể kiểm soát chặt chẽ toàn bộ biển Đông.

Điều đó có nghĩa là để trở thành lãnh chúa trên biển Đông, Trung Quốc chỉ cần phát triển những tài sản ấy thành nền tảng vững chắc có thể cung cấp hậu cần cho một mạng lưới tàu đánh cá, tàu hải giám, tàu ngầm và máy bay nhằm thống trị bầu trời và vùng nước khu vực này, cũng như một số vùng đất để thiết lập những khu kinh tế và an ninh rộng.

Đó chính xác là những gì Bắc Kinh đang tiến hành. Sáu mươi năm trước đảo Phú Lâm chỉ là một bãi cát không người ở, nay đã có gần 1.000 người, cả dân lẫn binh lính. Cơ sở vật chất lưỡng dụng bao gồm một sân bay với một đường băng 2.700m và một đường dẫn máy bay song song, có sức chứa hơn tám máy bay thế hệ thứ tư như tiêm kích SU-30MKK và máy bay đánh bom JH-7, một cảng nước sâu 1.000m có thể cho phép tàu tải trọng 5.000 tấn neo đậu.

Từ năm 2013, Trung Quốc cũng tiến hành các dự án xây dựng khổng lồ ở phía nam quần đảo Trường Sa hòng biến những đá mà nước này chiếm được thành đảo. Theo một quan chức tình báo cấp cao của Đài Loan tên là Lý Tường Trụ (Lee Hsiang-chou), chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thông qua kế hoạch mở rộng đảo lấn biển để xây dựng các cơ sở quân sự trên năm đảo nhỏ trong vùng biển này, trong đó có Đá Châu Viên, Đá Gạc Ma, Đá Gaven, Đá Tư Nghĩa và Đá Chữ Thập.

Trong số những dự án xây đảo ấy, gây nhiều tác động nhất phải kể đến dự án Đá Chữ Thập. Từ một rạn san hô chìm, Đá Chữ Thập sẽ sớm trở thành đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Sau khi lấn biển, với diện tích đất dự kiến đạt 2km vuông, Đá Chữ Thập sẽ lớn gấp bốn lần đảo tự nhiên lớn nhất trong quần đảo là Ba Bình hiện đang bị Đài Loan chiếm đóng. Khu vực mở rộng này cho phép Đá Chữ Thập chứa được một sân bay với đường băng 3.000m, một cảng nước sâu, các trạm radar, vài tên lửa tầm trung và tầm xa, kho bãi và cơ sở vật chất cung cấp dịch vụ khác đủ khả năng hỗ trợ hàng trăm tàu cá, tàu hải giám, tàu chiến và máy bay.

Chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu trong tương lai gần đến trung hạn Bắc Kinh tiếp tục xây đường băng sân bay và cảng nước sâu ở Subi, Đá Vành Khăn và bãi cạn Scarborough và thiết lập một vùng nhận dạng phòng không ở biển Đông.

Với các đảo được mở rộng và xây mới ở các vị trí chiến lược, Trung Quốc có nhiều khả năng hơn tất cả các cường quốc khác trong việc giành thế thống trị trên không và trên biển ở biển Đông. Mặc dù Bắc Kinh vẫn còn cả một con đường dài phía trước, nhưng trong vòng hai mươi năm nữa viễn cảnh một biển Đông la liệt các căn cứ của Trung Quốc trải dài từ quần đảo Hoàng Sa ở tây bắc tới Đá Vành Khăn ở đông nam, từ bãi cạn Scarborough ở đông bắc đến Đá Chữ Thập ở tây nam sẽ chẳng có gì là quá khó tưởng tượng.

Liệu quá trình lấn dần này có phải là không thể ngăn chặn? Mặc dù Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) mà Trung Quốc và các nước ASEAN ký năm 2002 không tạo nhiều cơ sở để phong tỏa các điểm xây dựng lại, nhưng các nước muốn duy trì nguyên trạng vẫn có thể gửi các quan sát viên quốc tế tới để giám sát xây dựng và gây sức ép ngoại giao nhằm thuyết phục Trung Quốc dừng hành động.

Một cách nữa để thách thức chiến lược cờ vây của Trung Quốc là dùng chính chiến thuật mà nước này sử dụng. Ví dụ, bước đầu tiên, Việt Nam có thể cho phép Ấn Độ sử dụng căn cứ hải quân ở vịnh Cam Ranh và cho Mỹ sử dụng căn cứ không quân ở Đà Nẵng. Đây là hai địa điểm chiến lược nhất của Việt Nam dọc bờ biển Đông. Nếu Trung Quốc không để ý tới thông điệp này, Việt Nam có thể tăng cường động thái ngăn chặn bằng cách cho phép quân đội Mỹ và Nhật Bản vào Cam Ranh và Đà Nẵng, từ đó hai nước có thể tuần tra biển Đông. Trên hết, nếu Trung Quốc vẫn quyết tâm biến biển Đông thành ao nhà của mình thì các nước Việt Nam, Philippines, Mỹ, Nhật và Ấn Độ cần hình thành một liên minh mạnh mẽ hòng đảo ngược lại trạng thái mất cân bằng quyền lực ấy.

Đại chiến lược của Trung Quốc ở biển Đông là một kế hoạch khôn khéo tận dụng những điểm yếu của các chiến lược dựa trên các trận đánh lớn mà điển hình là Chiến lược tác chiến không-hải mà Mỹ đưa ra nhằm vô hiệu hóa năng lực Chống tiếp cận – phong tỏa khu vực (A2AD) của Trung Quốc và Chiến lược kiểm soát tầm xa (Offshore Control), lựa chọn thay thế chủ chốt của chiến lược A2AD. Nhưng chiến lược lấn dần này không phải là hoàn hảo. Nó có thể bị ngăn chặn nếu Mỹ, Việt Nam và các cường quốc khu vực khác chơi cờ vây điêu luyện như Trung Quốc.

Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm) là phó giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương ở Honolulu. Quan điểm trong bài viết này là của cá nhân tác giả, không phản ánh quan điểm nơi tác giả công tác.

Biển Đông trên bàn cờ lớn của Trung Quốc

Tác giả: Đỗ Thanh Hải

Description: http://www.chinamilitary.net/wp-content/uploads/2011/05/Chinas-new-ships4.jpg

Đối với nhiều người, hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông luôn khó hiểu. Quan sát sự khác biệt giữa lời nói và việc làm của Trung Quốc ở Biển Đông, Ryan Santicola kết luận Trung Quốc không có cách tiếp cận nhất quán. Brad Gloasserman cũng thấy khó giải thích lý do Trung Quốc lại chọc giận nhiều nước láng giềng của họ cùng một lúc. Tuy nhiên, xem xét các động thái của Trung Quốc dưới  lăng kính văn hóa chiến lược của Trung Quốc có thể cho chúng ta một gợi mở đáng suy ngẫm.

Người Trung Quốc thường nhìn chính trị quốc tế như một ván cờ lớn, trong đó mỗi nước đi là một phần trong chiến lược tổng thể để giành chiến thắng. Có ba điều quan trọng trong bàn cờ đó. Thứ nhất, sự bí mật và mưu kế là tối quan trọng để đánh bại đối một đối thủ mạnh hơn mình. Thứ hai, người Trung Quốc tính toán dài hạn, hướng đến thay đổi tiệm tiến hơn là có tính cách mạng, và tận dụng các cơ hội. Người Trung Quốc không thiếu kiên nhẫn như người Phương Tây. Họ có thể kiên nhẫn đợi chờ thời điểm chín muồi để hành động. Thứ ba, các chiến lược gia Trung Quốc không coi ‘chiến tranh’ là ưu tiên hàng đầu. Như Thomas G. Mahnken đã chỉ ra, người Trung Quốc tin rằng chiến lược chủ yếu nhằm tạo ra “thế” để không chiến mà thắng. Những hiểu biết này giúp phần nào giải mã những việc Trung Quốc đang làm ở Biển Đông.

Chiến lược lớn của Trung Quốc

Là một cường quốc đang trỗi dậy, Trung Quốc cần có các khu vực ảnh hưởng ở xung quanh biên giới (vùng đệm an ninh). Nói cách khác, Trung Quốc cuối cùng sẽ tìm mọi cách để đẩy Mỹ ra khỏi Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Do Trung Quốc không đủ khả năng ganh đua với Mỹ về quân sự, chiến lược lớn của Trung Quốc là tránh đối đầu trực diện với Mỹ, sử dụng áp lực để thu phục các nước láng giềng, buộc họ phải tự rời khỏi vòng tay của Mỹ.

Trong chiến lược lớn ấy, Biển Đông là đấu trường chính vì ba lý do. Một là Biển Đông là một vùng biển nửa kín án ngữ nhiều tuyến đường biển chủ chốt đến Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Thứ hai, các quốc gia vừa và nhỏ ở xung quanh Biển Đông có ít khả năng cưỡng lại sức mạnh vượt trội của Trung Quốc. Cuối cùng, sự hiện diện của Mỹ ở Biển Đông yếu hơn nhiều so với ở Biển Hoa Đông. Từ nhãn quan chiến lược của Trung Quốc, Biển Đông là yếu huyệt của toàn bộ hệ thống an ninh của Mỹ ở Châu Á-Thái Bình Dương.

Bằng chứng cho mưu đồ của Trung Quốc ở Biển Đông là yêu sách đường lưỡi bò. Yêu sách này không có cơ sở pháp lý và trái với Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.  Trung Quốc công khai yêu sách này tháng 5/2009 trong công hàm phản đối Báo cáo chung của Việt Nam và Malaysia nộp lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc. Bất chấp sự chỉ trích và đề nghị giải thích của nhiều nước, Trung Quốc tránh né làm rõ ranh giới và bản chất của yêu sách đó. Sự mập mờ tạo ra mức độ linh hoạt lớn hơn cho Trung Quốc để diễn giải quyền và tài phán của nước này đối với một vùng biển rộng lớn mà Trung Quốc gọi là “vùng nước lịch sử’, chiếm tới 80% Biển Đông.

Trò chơi của Trung Quốc ở Biển Đông

Các sự vụ ở Biển Đông hé lộ một chiến lược tinh tế của Trung Quốc để chèn ép các quốc gia yêu sách khác ở đây. Chiến lược này có 4 thành tố. Thứ nhất, Trung Quốc phát triển một lực lượng hải quân đủ khả năng để ngăn chặn Mỹ ở bên ngoài chuỗi đảo thứ nhất, và cũng đủ sức để đè bẹp hải quân của các quốc gia Đông Nam Á.

Thứ hai, Trung Quốc sử dụng lực lượng tàu bán quân sự và dân sự làm phương tiện để thay đổi nguyên trạng. Đến nay, với các tàu cá và tàu chấp pháp, Trung Quốc đã giành được kiểm soát đối với bãi Trăng Khuyết (Scarborough Shoal) và đang tiến hành bao vây điểm đóng quân của Philippines ở Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal).

Thứ ba, Trung Quốc sử dụng giàn khoan di động khổng lồ để kiểm soát không gian biển. Từ ngày 1/5/2014, TQ đã điều dàn khoan Hải Dương 981 và hơn 100 tàu đủ loại đến vùng nước Việt Nam tuyên bố vùng thềm lục địa hợp pháp của họ. Hải Dương 981 không đơn thuần là một giàn khoan dầu, mà nó còn là một cột mốc chủ quyền.

Sự vụ giàn khoan 981 đáng báo động ở mức độ bạo lực. Các tàu cá và tàu chấp pháp của Trung Quốc, có sự yểm trợ của tàu chiến, không ngần ngại sử dụng cách “đánh nguội”, như đâm húc, sử dụng loa công suất lớn, và bắn vòi rồng, để phá hỏng và đe dọa các tàu đối phương. Máy bay của Trung Quốc bay ở tầm thấp để uy hiếp các thủy thủ Việt Nam. Va chạm và vòi rồng đã làm bị thương nhiều thủy thủ và làm nhiều tàu của Việt Nam hư hỏng.

Để bảo vệ giàn khoan, Trung Quốc đã tùy tiện áp đặt hạn chế đi lại ở quanh khu vực giàn khoan. Lúc đầu, Trung Quốc tuyên bố khu vực cấm tàu bè nước ngoài với bán kính 1 hải lý từ vị trí giàn khoan. Khoảng cách này sau đó được nâng lên thanh 3 hải lý. Trên biển, các tàu Trung Quốc chủ động thiết lập vùng cấm ở phạm vi 20-25 hải lý từ giàn khoan. Một tàu đánh cá của Việt Nam đã bị đâm chìm ở vị trí cách giàn khoan 17 hải lý.

Thứ tư, Trung Quốc sử dụng ngoại giao để đánh lạc hướng dư luận. Lãnh đạo Trung Quốc liên tục hứa hẹn “phát triển hòa bình”. Mặc dù chủ trương theo đuổi việc giải quyết các tranh chấp qua con đường song phương, Trung Quốc từ chối thỏa hiệp về vấn đề chủ quyền. Trung Quốc cũng trì hoãn các nỗ lực hướng đến xây dựng một Bộ Quy tắc Ứng xử, mặc dù đây là một trong các cam kết trong Tuyên bố Ứng xử  của các bên ở Biển Đông ký năm 2002. Tại các hội nghị quốc tế, các quan chức và học giả Trung Quốc thường né tránh bàn luận chi tiết về cơ sở pháp lý của yêu sách đường lưỡi bò và đổ lỗi cho các bên tranh chấp khác cũng như Mỹ là nguyên nhân buộc họ phải quyết đoán. Phát biểu của Tướnng Wang Guanzhong tại Đối thoại Shangri-La 13 vừa rồi là một ví dụ điển hình.

Trung Quốc đang buộc các đối thủ chơi ván cờ của họ, và ván cờ đó Trung Quốc có lợi thế. Các “va chạm nguội” có thể đủ để bẻ gãy ý chí của đối thủ nhỏ hơn trong khi tránh được sự can thiệp mạnh mẽ từ phía Mỹ.

Phản ứng của các nước trong khu vực

Các quốc gia yêu sách ở Biển Đông có ít “lá bài” để đáp trả Trung Quốc. Pháp lý là lựa chọn tốt cho Philippines, nhưng không phải cho Việt Nam tại thời điểm hiện tại. Kinh tế Việt Nam hiện phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc. Năm 2013, 28.1 % xuất khẩu của Việt Nam, phần lớn là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, là từ Trung Quốc. Nguy cơ từ các đòn trả đũa kinh tế và triển vọng mịt mờ của các con đường pháp lý làm cho lựa chọn này không hấp dẫn trong ngắn hạn. Trong khi đó, ở Việt Nam, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đã biến thành bạo động gây lo ngại cho giới đầu tư nước ngoài. Chủ nghĩa dân tộc thực sự là một hòn than hồng rất dễ gây bỏng tay.

Cả Hà Nội và Manila đều cố gắng kêu gọi sự hỗ trợ của ASEAN. Nhưng họ đều vấp phải khó khăn trong việc tìm kiếm sự nhất trí trong ASEAN để nêu đích danh và phê phán hành vi của Trung Quốc. Khi Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam, ngày 10/5/2014, ASEAN  ra một tuyên bố riêng rẽ về Biển Đông. Tuy nhiên, tuyên bố này né tránh việc lên án hành vi đơn phương của Trung Quốc.

Lo ngại về khả năng leo thang thành xung đột vũ trang, cả Việt Nam và Philippine đều tránh triển khai tàu chiến đến điểm nóng. Ở sự vụ giàn khoan, dù Việt Nam tuyên bố sẵn sàng sử dụng “mọi biện pháp cần thiết”, các nhà lãnh đạo Hà Nội cũng nói rõ Việt Nam sẽ không nổ súng trước. Rõ ràng, rất khó để biện minh cho việc nổ súng trước trong luật pháp quốc tế. Nếu họ nổ súng, Mỹ cũng không cứu họ. Nếu một cuộc xung đột vũ trang xảy ra, Việt Nam rõ ràng yếu thế trước hỏa lực từ không quân và hải quân của Trung Quốc. Như vậy, do không có bất kỳ sự hỗ trợ chiến lược nào đáng kể, Việt Nam buộc phải chọn giải pháp an toàn. Tại Đối thoại Shrangri-La vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng của Việt Nam đã chọn “tông” phát biểu vừa phải, giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng giàn khoan trong khi nhấn mạnh mối quan hệ tổng thể tốt đẹp giữa Việt Nam và Trung Quốc để kêu gọi Trung Quốc lùi bước.

Mỹ cần can dự mạnh mẽ hơn

Washington đã tái khẳng định vai trò lãnh đạo của Mỹ ở Thái Bình Dương qua chính sách “tái quân bình” với một loạt các biện pháp quân sự, kinh tế và ngoại giao. Mỹ cũng là nước lớn tiếng trong việc phê phán các hành động đơn phương của Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ vẫn chưa có một chiến lược toàn diện và lâu dài để đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông. Nếu Mỹ để xu hướng hiện tại tiếp diễn, vị thế của họ ở Biển Đông sẽ bị suy giảm.

Trước nguy cơ thất thế ở một khu vực chiến lược trọng yếu, Mỹ nên thực hiện bốn biện pháp. Một là, Mỹ nên lên án và phản ứng mạnh mẽ trước các mưu đồ nhằm thay đổi nguyên trạng. Hai là, Mỹ nên có biện pháp cụ thể để đảm bảo an toan hàng hải và thúc đẩy việc áp dụng nghiêm túc UNCLOS 1982. Mỹ nên có tuyên bố rõ hơn và mạnh hơn bác bỏ yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc. Ba là, Mỹ nên thúc đẩy các cuộc thảo luận nghiêm túc về một bộ quy tắc ứng xử có ràng buộc và các giải pháp căn bản, lâu dài cho các tranh chấp. Mỹ không nên đơn thương độc mã làm các việc trên, mà nên hợp tác với các chặt chẽ với các quốc gia yêu sách và các quốc gia sử dụng biển để xây dựng một trật tự pháp luật minh bạch và đáng tin cậy ở Biển Đông.

Bóng đang ở phía sân của Mỹ, và Mỹ cần phải một phản ứng quyết liệt hơn./.

Bản dịch từ bài  gốc Tiếng Anh: South China Sea in China’s Grand Strategy, CSIS xuất bản tại:

Bản dịch từ bài  gốc Tiếng Anh: South China Sea in China’s Grand Strategy, CSIS xuất bản tại: http://csis.org/files/publication/Pac1444.pdf

Tính toán mới của Trung Quốc về Biển Đông

Tác giả: Yun Sun | Biên dịch: Lê Hồng Hiệp

Description: http://m.f29.img.vnecdn.net/2014/06/11/tau2-7366-1400323785-8761-1402453149.jpg

Trong những tháng gần đây, các hành động đơn phương của Trung Quốc nhằm khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông đã đẩy căng thẳng khu vực lên cao. Các hành động được tính toán kỹ lưỡng của Trung Quốc được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố trong lẫn ngoài nước. Những yếu tố này bao gồm việc thúc đẩy uy tín và thẩm quyền của Tập Cận Bình nhằm phục vụ chương trình nghị sự cải cách trong nước; và nhận định rằng Hoa Kỳ rất nhiều khả năng sẽ không can thiệp vào thời điểm này. Bên cạnh những hành động công khai nhằm khẳng định yêu sách của mình ở Biển Đông, các tuyên bố chính thức và các phân tích pháp lý trong nội bộ Trung Quốc cũng phản ánh một quyết tâm được điều chỉnh lại nhằm củng cố (yêu sách) đường chín đoạn gây tranh cãi của nước này ở Biển Đông.

Từ quan điểm Trung Quốc, lời giải thích rõ ràng và trực tiếp nhất cho sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông là rất đơn giản: Trung Quốc tin rằng sự kiềm chế đơn phương của nước này trước đây đã không làm gì để giúp cải thiện vị thế của nó trong các tranh chấp Biển Đông và việc không hành động thực tế đã dẫn tới việc các nước tranh chấp khác tăng cường hiện diện và yêu sách của mình. Vì vậy, để Trung Quốc có thể cải thiện vị thế của mình trong bối cảnh hiện tại cũng như các cuộc đàm phán tương lai, Trung Quốc trước hết phải thay đổi nguyên trạng thông qua những phương tiện sẵn có cần thiết. Trung Quốc muốn ưu tiên sử dụng cách tiếp cận dân sự và bán quân sự nhưng không bác bỏ biện pháp cưỡng ép quân sự nếu phải làm như vậy. Một vị thế có lợi và một đặc quyền riêng biệt nhất định ở Biển Đông được cho là không thể thiếu đối với tham vọng của Trung Quốc nhằm trở thành một “cường quốc biển”, một “nhiệm vụ chính” được đề ra bởi Đại hội Đảng lần thứ 18 vào năm 2012 và là một chính sách được cá nhân Tập ủng hộ. Trong khi tham vọng có được một lực lượng “hải quân viễn dương” và việc bành trướng hải quân đối mặt với nhiều điểm nghẽn dọc theo bờ biển phía Đông từ Nhật Bản kéo dài xuống Philippines, thì Biển Đông được coi là mang lại cho Trung Quốc một khu vực hải dương rộng lớn và dễ thở hơn cho các hoạt động hải quân của mình.

Dù chính sách thay đổi nguyên trạng và theo đuổi địa vị cường quốc biển đã tồn tại lâu nay thì thời điểm cụ thể của các hành động gần đây nhất của Trung Quốc lại liên quan đến tình hình chính trị trong nước – Chủ tịch Tập cần một vị thế chính sách đối ngoại mạnh nhằm củng cố nền tảng quyền lực trong nước. Chương trình cải cách đang diễn ra của Tập từ khi nhậm chức vào năm 2013, bao gồm “tăng cường cải cách kinh tế” và chiến dịch “chống tham nhũng” mạnh mẽ đã đụng chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm liên quan đến các nhóm lợi ích hiện hữu và quan hệ chính trị trong hàng ngũ lãnh đạo Trung Quốc. Vì vậy Tập cần giành được càng nhiều uy tín chính sách đối ngoại càng tốt để xây dựng hình ảnh lãnh đạo cứng rắn và pha loãng chỉ trích nội bộ đối với các chương trình nghị sự trong nước của mình. Điều này không nhất thiết cho thấy hoặc chứng minh rằng bản thân Tập không ủng hộ một chính sách đối ngoại cứng rắn hơn, chỉ là bổ sung một lớp động lực mạnh mẽ thêm vào đó.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là Trung Quốc hành xử hung hăng ở Biển Đông vì nước này tin rằng nó có thể làm như vậy. Đánh giá này không chỉ dựa trên năng lực quân sự ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc vốn vượt trội hơn hẳn tất cả các nước tranh chấp ở ĐNA cộng lại, mà còn dựa trên niềm tin ở Trung Quốc rằng Mỹ sẽ không dùng sức mạnh cứng để đối phó với các hành động của Trung Quốc. Trung Quốc đã theo dõi sát sao sự lưỡng lự của Mỹ trước việc can thiệp quân sự vào Syria cũng như ở Ukraine, và rút ra kết luận rằng chính quyền Obama không muốn can dự vào một cuộc xung đột quân sự. Ngoài ra Trung Quốc cũng tin rằng chính quyền Obama không muốn có một di sản chính sách đối ngoại trong đó bao gồm một cuộc xung đột với Trung Quốc.

Mặc dù vậy, Trung Quốc cũng thừa nhận sự khác biệt giữa Ukraine, vốn không phải là một thành viên của NATO, với Philippines, vốn là một đồng minh của Mỹ. Tuy nhiên, khi Trung Quốc giành quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough vào năm 2012, Mỹ đã không làm gì. Hơn nữa, như bà Phó Oánh, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đã chỉ ra tại Đối thoại Shangri-La gần đây, tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam “không liên quan gì tới Mỹ”. Thông điệp ẩn đằng sau là Việt Nam thậm chí không phải là một đồng minh của Mỹ và khả năng Mỹ can thiệp thay mặt Việt Nam là cực kỳ thấp, nếu không muốn nói là không tồn tại.

Bên cạnh việc tiến hành các hành động đơn phương nhằm thay đổi nguyên trạng, Trung Quốc cũng đang củng cố các lập luận của mình đằng sau “đường chín đoạn” gây tranh cãi ở Biển Đông. Phó Tổng tham mưu trưởng Giải phóng quân Trung Quốc (PLA) Wang Guanzhong đã trình bày 6 điểm chưa có tiền lệ về tính hợp pháp của đường chín đoạn tại Đối thoại Shangri-La, một chỉ dấu rõ ràng cho thấy quyết tâm của Bắc Kinh trong việc chống đỡ các yêu sách tranh cãi của mình. Điều này tương phản hoàn toàn với một vài năm trước đây khi cộng đồng nghiên cứu pháp lý và chính sách đối ngoại của Trung Quốc vẫn còn tranh cãi về giá trị của đường chín đoạn. Giờ đây các nhà phân tích Trung Quốc hầu như nhất trí cho rằng Trung Quốc nên đơn phương duy trì yêu sách tranh cãi này.

Trung Quốc hiểu rất rõ sự mâu thuẫn giữa đường chín đoạn với UNCLOS và đã đầu tư đáng kể vào các nghiên cứu pháp lý nhằm củng cố lập luận “quyền lịch sử” của mình. Một số chuyên gia Trung Quốc đã tìm thấy sự biện minh ngay trong chính UNCLOS, tuyên bố rằng Công ước này “mập mờ” và “không bao quát” về vấn đề danh nghĩa quyền lịch sử. Vì vậy, theo quan điểm của họ, vấn đề quyền lịch sử đã không được giải quyết bởi UNCLOS và vẫn là một cuộc thảo luận mở đang diễn ra. Các chuyên gia Trung Quốc khác lại cho rằng đường chín đoạn sẽ không có căn cứ ủng hộ nào từ UNCLOS. Thay vào đó họ cố gắng tìm kiếm các cách biện minh khác bên ngoài UNCLOS từ các luật tập quán và quy tắc hành xử quốc tế. Cả hai trường phái đều lập luận rằng do đường chín đoạn ra đời trước UNCLOS 4 thập niên và các quyền lịch sử của Trung Quốc có trước UNCLOS còn lâu hơn thế, nên UNCLOS không thể được áp dụng theo kiểu hồi tố để bác bỏ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển của Trung Quốc vốn đã được hình thành trong lịch sử.

Trung Quốc cũng cẩn thận điều chỉnh lại những gì mà nước này muốn yêu sách trong đường chín đoạn. Lý do duy trì “sự mập mờ chiến lược” là rõ ràng: Nhằm dành chỗ và sự linh hoạt cho các cuộc đàm phán tương lai. Hầu hết các nhà phân tích Trung Quốc đều có xu hướng coi các vùng nước trong đường chín đoạn là một vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, mặc dù chính phủ chưa công khai ủng hộ lập trường này.

Nhiều người trong giới hoạch định chính sách Trung Quốc hiểu rõ những điểm yếu của các lập luận pháp lý này. Tuy nhiên có các lập luận yếu nhưng hợp pháp còn tốt hơn là không có lập luận nào cả, đặc biệt là khi các lập trường như vậy được chống đỡ bởi sức mạnh quốc gia lớn và sự sẵn lòng trong việc sử dụng quyền lực đó. Nếu so sánh, phí tổn về uy tín đối với Trung Quốc được cho là có thể quản lý được. Trong thực tế, theo phân tích chi phí – lợi ích của Trung Quốc thì lợi ích thật sự của các hành động cưỡng bức lớn hơn đáng kể so với chi phí. Rốt cuộc, Trung Quốc có các biện pháp khác, nhất là thông qua kinh tế, để cải thiện quan hệ với ĐNA, trong khi các yêu sách của nó ở Biển Đông khó có thể đạt được thông qua bất cứ cách nào khác ngoài sự cưỡng ép. Bên cạnh đó, Trung Quốc không chấp nhận cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định bởi UNCLOS. Vì vậy ngay cả khi tòa trọng tài quốc tế ủng hộ các yêu sách của Philippines thì Trung Quốc cũng không chấp nhận kết quả đó, và sẽ rất khó, nếu không nói là hoàn toàn không thể, để tòa có thể cho thi hành được phán quyết của mình.

Dù các nước khác có muốn hay không thì Trung Quốc cũng đang giành được những gì nước này muốn. Các diễn biến mới trong tính toán và lập trường của Trung Quốc cần phải được hiểu một cách chính xác và được đối phó kịp thời bởi các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là Hoa Kỳ./.

Nguồn: Asia Pacific Bulettin

 


Ngày cập nhật 2015/01/15 Tác giả: nhadatphucankhang





Hỗ trợ trực tuyến

 

0835570473 - Họa sĩ Minh Tâm vẽ tranh Phong Thủy và Tôn Giáo

---

0938168807 (Marina)

Hình Ảnh Dự Án

Liên Kết Website

BACK TO TOP